- Dàn ý và Bài văn mẫu Phân tích Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân – Hấp Dẫn và Lôi Cuốn
- I. Dàn ý Phân tích Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân (Ngắn Gọn và Đầy Đủ):
- 1. Bắt Đầu Bài Viết
- 2. Phần Thân Bài
- 3. Tổng Kết
- II. Mẫu Bài văn Phân tích Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân từ học sinh giỏi siêu xuất sắc
- 1. Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân ngắn gọn nhất, mẫu số 1 (Chuẩn):
- Bài văn Phân tích tùy bút Người lái đò sông Đà lớp 12
- 2. Phân tích Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân phiên bản 2:
- Top những bài Phân tích Người lái đò sông Đà
- 3. Phân tích Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân với mẫu số 3: (Chuẩn)
- Bài phân tích văn mẫu về tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
- 4. Mẫu văn Phân tích Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân đạt điểm xuất sắc, mẫu số 4
Nguyễn Tuân, một ngôi sao lâu dài trong làng văn hóa Việt Nam. Khám phá tài năng độc đáo của ông qua bài phân tích Người lái đò sông Đà, Ngữ văn lớp 12, học kì I trên Nguyễn Tất Thành!
Bài Viết: Phân Tích Tùy Bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Bạn đang xem: Phân Tích Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân – Ngắn Gọn và Hấp Dẫn
Chương Trình Nội Dung:I. Bản Tóm Tắt Chi TiếtII. Bài Mẫu 1. Mẫu Số 1 2. Mẫu Số 2 3. Mẫu Số 3 4. Mẫu Số 4
Dàn ý và Bài văn mẫu Phân tích Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân – Hấp Dẫn và Lôi Cuốn
Bí Quyết Phương Pháp Phân Tích Bài Thơ và Đoạn Thơ để Đạt Điểm Cao
I. Dàn ý Phân tích Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân (Ngắn Gọn và Đầy Đủ):
1. Bắt Đầu Bài Viết
– Giới thiệu về tác giả: Nguyễn Tuân, một nhà văn trăn trở suốt cuộc đời trong việc khám phá vẻ đẹp.- Giới thiệu về tác phẩm: “Người lái đò sông Đà,” trích từ tập tùy bút “Sông Đà,” là một trong những tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân sau thời kỳ cách mạng tháng Tám.
2. Phần Thân Bài
* Tổng Quan
– Tác phẩm là kết quả của hành trình khám phá Tây Bắc, nơi Nguyễn Tuân tìm kiếm “chất vàng thử lửa của thiên nhiên Tây Bắc” và “chất vàng đã trải qua thử lửa” của những con người đặc biệt ở đây.
a. Sự Đẹp Đen Tối của Dòng Sông
+ Bên Bờ Sông- Vách sáng bóng, cao vút, đứng thẳng.- Quãng sông chật như “con nai, con hổ có lần vọt từ bờ này sang bờ khác”.- “Mặt sông chỉ đúng ngọ mới có mặt trời”, “đi qua quãng ấy như đứng dưới ánh đèn chớp.”- Trải qua quãng này, người ta cảm nhận như “đang đứng ở ngõ nào đó, ngó lên cửa sổ tầng thứ mấy đó vừa tắt đèn điện.”→ hiện ra trước mắt là sông Đà hùng vĩ, u ám, khiến ai đến cũng phải kinh sợ.+ Đáng Sợ Ghềnh- Ghềnh Hát Loóng “dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm…”.- “cuồn cuộn”, “gùn ghè” vừa gợi âm thanh đáng sợ, vừa tạo hình ảnh khủng khiếp của nơi này.- Miêu tả như những kẻ đòi nợ→ Có thể mang lại nhiều nguy hiểm mà con người không thể dự đoán.+ Nước Hút- Từ xa, những xoáy nước trên sông giống như lúm đồng tiền trên khuôn mặt cô gái, có thể kéo xuống đáy sông và làm chìm một chiếc thuyền.- Những hút nước như giếng bê tông thả vào sông để làm móng cầu.- “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc.”→ Nguyễn Tuân với ngòi bút tinh tế khiến độc giả cảm thấy như đang trải qua một bộ phim hành động ly kỳ và đầy kinh hoàng.+ Sức Mạnh Thác Nước- Tiếng thác như “oán trách,” nghe như “van xin,” “khiêu khích,” gọi là “chế nhạo”.- “Thế rồi nó rống lên”, so sánh tiếng thác sông Đà như tiếng của hàng ngàn con trâu mộng đang quậy phá trong rừng lửa.→ Sự kiềm chế của nước sông.+ Khối Đá- “cả một chân trời đá” → đá sông Đà vô số.- từng viên đá mặt hòn nào trông cũng “ngỗ ngược,” “nhăn nhúm,” “méo mó”.- Vây thành một thạch trận như bộ đồ bát quái trên sông Đà.→ sông Đà giống như kẻ thù số một của con người
b. Vẻ Đẹp Trữ Tình của Sông Đà
– Sông Đà “tuôn dài như áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn trong mây trời Tây Bắc rợp hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi mèo đốt nương xuân”.- Không chỉ đẹp về hình dáng, màu nước cũng tuyệt vời: xuân xanh ngọc bích, thu chín màu nước sông như da mặt người bầm vì rượu.
– So sánh hết sức tinh tế khi mô tả dòng sông như “bờ sông nguyên sơ như tấm gương của thời tiền sử”, “bờ sông thuần khiết như một chuyện cổ tích từ xa xưa”.→ Bằng những đoạn văn trữ tình và lôi cuốn, tác giả đã tạo nên một bức tranh vô cùng thơ mộng về sông Đà.
* Đánh Giá Chung
Với sự hiểu biết sâu rộng và khả năng diễn đạt tinh tế → tác giả đã đưa độc giả từ cảm giác kinh sợ này đến sự ngạc nhiên khác khi mô tả về hai vẻ đẹp hung bạo và trữ tình của sông Đà.
3. Tổng Kết
Xác nhận lại giá trị của tác phẩm
II. Mẫu Bài văn Phân tích Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân từ học sinh giỏi siêu xuất sắc
1. Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân ngắn gọn nhất, mẫu số 1 (Chuẩn):
Khi nhắc đến Nguyễn Tuân, chúng ta nghĩ ngay đến một nhà văn trải qua cuộc đời tìm kiếm cái đẹp. Trong các tác phẩm của ông, cái đẹp không chỉ là trạng thái hoàn hảo mà còn là sự hoàn mỹ. Nguyễn Tuân đã đạt được nhiều thành công trong sự nghiệp văn chương của mình, cả trước và sau cách mạng. “Người lái đò sông Đà” được chọn từ tập tùy bút “Sông Đà” đại diện cho một trong những tác phẩm xuất sắc của ông sau cách mạng tháng Tám.
Kết quả của hành trình tìm kiếm ‘chất vàng thử lửa của thiên nhiên Tây Bắc’ và ‘chất vàng mười đã qua thử lửa’ của con người nơi đây được thể hiện trong tác phẩm của Nguyễn Tuân.
Ngay từ những dòng văn đầu tiên, Nguyễn Tuân đã rõ nét vẽ sự hung bạo của sông Đà. Bờ sông không chỉ là những đường cát trắng mộng mơ, mà còn là bức tường cao vút, đứng đằng. Quãng sông hẹp đến nỗi ‘con nai, con hổ có lần vọt từ bờ này sang bờ kia’. ‘Mặt sông chỗ ấy chỉ đúng ngọ mới có mặt trời’, ‘đang mùa hè đi đò qua quãng ấy cũng cảm thấy lạnh’, là cái lạnh từ từ thấm vào từng lớp da, là nỗi sợ hãi trước vẻ đẹp hoang sơ của thiên nhiên. Đi qua quãng này, người ta cảm nhận mình ‘đang đứng ở một cái ngõ nào đó, ngóng vọng lên cái cửa sổ trên cái tầng nhà nào đó vừa tắt đèn điện’. Qua những hình ảnh miêu tả, Nguyễn Tuân đưa người đọc từ thế giới đô thị về với vẻ đẹp đồng quê kỳ bí và đôi khi là nỗi sợ hãi của thiên nhiên sông nước. Sông Đà hiện ra trước mắt với vẻ sâu, hẹp, tối và lạnh đủ để khiến bất cứ ai đến đây cũng phải kinh sợ.
Vượt qua bảy mươi ba ghềnh, nhưng sợ hãi nhất vẫn là ghềnh Hát Loóng với ‘dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm…’. Sự cấu trúc trùng điệp và nhịp văn nhanh mạnh khiến người đọc không khỏi rơi vào sự hãi hùng trước âm thanh của sóng, gió, nước và đá. Các từ láy ‘cuồn cuộn’, ‘gùn ghè’ không chỉ tái hiện âm thanh ghê rợn mà còn đánh bại hình ảnh khủng khiếp của nơi này. Sông Đà được mô tả như những kẻ sẵn sàng ‘đòi nợ xuýt’ những người trên sông. Nó có thể tạo ra rất nhiều nguy hiểm mà con người không thể lường trước.
Xem thêm : Tân Hợi 1971 hợp số nào? Số may mắn với tuổi 1971
Đó vẫn chưa đủ để kể hết sự đáng sợ của sông Đà. Nguyễn Tuân sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật để miêu tả sự hung bạo của hút nước sông Đà. Xoáy nước từ xa giống như cái lúm đồng tiền trên má cô gái, nhưng không có vẻ đẹp duyên dáng, thay vào đó, nó có thể cuốn trôi một chiếc thuyền xuống đáy sông và đánh tan xác. Nguyễn Tuân còn so sánh những cái hút nước với những cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. So sánh này vừa đề cập đến sự sâu sắc của những cái xoáy nước, vừa khiến người đọc nghĩ đến cảnh tượng đáng sợ. Khiến người đọc cảm thấy sợ hãi hơn khi đọc những câu mô tả âm thanh của những cái hút nước. ‘Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc’. Nước không chỉ dồn về mạnh mẽ và nhanh chóng mà còn ặc ặc như đang rót dầu sôi. Từ láy ‘ặc ặc’ tạo cảm giác như sông Đà là một sinh vật thủy quái bị bóp chặt, đang quằn quại giãy giụa. Bút lực sắc sảo của Nguyễn Tuân khiến người đọc cảm thấy như đang xem một bộ phim hành động hấp dẫn nhưng đầy kinh dị.
Sự dữ tợn của sông Đà được thể hiện qua những dòng thác nước. Tác giả tập trung vào âm thanh, miêu tả từ xa đến gần. ‘Còn xa lắm mới đến cái thác’, nhưng tâm hồn và diện mạo của ‘kẻ thù số một của con người’ dần hiện ra. Âm thanh của thác vang lên ‘réo gần mãi lại réo to mãi lên’. Tiếng thác như ‘oán trách’, như ‘van xin’, ‘khiêu khích’, giọng gằn mà ‘chế nhạo’. Sự kết hợp tinh tế giữa so sánh và nhân hoá khiến sông Đà trở nên phức tạp. ‘Thế rồi nó rống lên’, âm thanh như đang ở đỉnh điểm của một cơn phấn khích man dại. Tiếng thác sông Đà giống như tiếng của một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn để phá tuông sự bủa vây của rừng lửa.
Bài văn Phân tích tùy bút Người lái đò sông Đà lớp 12
Để tăng thêm vẻ dữ tợn của sông Đà, Nguyễn Tuân đặt tâm tư vào việc mô tả đá sông. Hình ảnh ‘cả một chân trời đá’ khiến đá sông Đà trở nên vô số. Những tảng đá được tạo hình với từng tảng ‘ngỗ ngược’, ‘nhăn nhúm’, ‘méo mó’. Rồi chúng lại tụ về tạo thành một thạch trận giống như một trận đồ bát quái trên sông Đà.
Dưới bút của Nguyễn Tuân, con sông hung dữ này như kẻ thù không khoan nhượng của con người. Tuy nhiên, sau sự dữ tợn ấy, nó lại hiện lên với vẻ trữ tình, thơ mộng đến không ngờ.
Nhìn từ trên máy bay, sông Đà hiện lên như một áng tóc trữ tình, đầu tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi mèo đốt nương xuân. Sự so sánh này khiến sông Đà trở nên như một tác phẩm nghệ thuật.
Sông Đà không chỉ đẹp về dáng hình mà còn đẹp ở màu nước. Dòng sông thay đổi qua từng không gian, thời kỳ khác nhau. Mùa xuân, nước xanh ngọc bích, mùa thu, sông chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa. Tác giả với sự mô tả chi tiết và so sánh độc đáo đã làm nổi bật vẻ đẹp đa dạng và sâu sắc của sông Đà.
Bờ bãi sông Đà trải dài mênh mang, ‘bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm sông Đà’. Câu văn ngắn gọn tạo nên nhịp văn hối hả. Từ trên thuyền, sông Đà trở nên ‘lặng tờ’, tĩnh lặng tuyệt đối, nhưng sức sống dồi dào vẫn hiện hữu. Sự mô tả trực quan và so sánh tinh tế giúp sông Đà hiện ra không chỉ là không gian mà còn là dòng sông của thời gian. Giữa khung cảnh thơ mộng, tiếng còi tàu đường sắt nối tiếp, đưa chúng ta trở về cuộc sống hiện đại.
Nhà văn đã tạo nên một đoạn văn giàu chất thơ khi miêu tả vẻ trữ tình, thơ mộng của sông Đà. Đó là chất thơ ẩn trong cảnh sắc và tâm hồn con người.
2. Phân tích Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân phiên bản 2:
Người lái đò sông Đà là một kiệt tác độc đáo, đặc trưng cho phong cách sáng tạo của Nguyễn Tuân sau thời kỳ cách mạng tháng tám: Uyên bác, tài năng, không ngần ngại gian lao để sáng tác những bức tranh văn hóa đậm chất, mang đến cho người đọc và người nghe cảm nhận về tâm hồn khát khao hòa nhập với nhịp độ phát triển của đất nước và cuộc sống.
Tác phẩm là kết quả của hành trình ngược dòng miền Tây Bắc trong giai đoạn năm 1958-1960 đầy trải nghiệm của tác giả, được xuất bản lần đầu trong tập Sông Đà (1960). Sông Đà mênh mông, uốn cong qua các dãy núi, dòng nước chảy xiết với độ dốc lớn. Đặc điểm này đã tạo nên vẻ đẹp kỳ diệu, hoang sơ và hùng vĩ của Đà giang. Hình ảnh sông Đà vừa hung bạo vừa trữ tình đã làm nổi bật vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ của người lái đò trên dòng Đà giang.
Nguyễn Tuân là một danh nhân văn hóa của văn học Việt Nam hiện đại. Ông đạt được những thành tựu lớn trong cả hai giai đoạn trước và sau năm 1945. Trước năm 1945, tập “Vang bóng một thời” của ông gồm mười một truyện xuất sắc, có giá trị to lớn. Trong bối cảnh kháng chiến chống Pháp và Mỹ, phong cách sáng tạo của Nguyễn Tuân vẫn giữ nguyên tính cách riêng biệt. Ông là một nhà văn suốt đời theo đuổi cái đẹp, luôn khám phá thế giới từ góc độ văn hóa và thẩm mỹ. Nguyễn Tuân mô tả con người trong vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ. Thiên nhiên hiện lên trong văn chương của ông trở thành những tác phẩm nghệ thuật kỳ diệu, độc đáo. Người lái đò sông Đà là đoạn trích được rút từ tập tùy bút Sông Đà viết năm 1960, trong chuyến đi gian nan nhưng đầy hứng khởi đến với miền Tây Bắc đầy khó khăn. Chuyến đi đó không chỉ đáp ứng mong muốn “xê dịch” của nhà văn mà còn là dịp để tìm kiếm “vàng” của cảnh đẹp thiên nhiên ở nơi đây, nơi vừa nguy hiểm mạo hiểm nhưng cũng chứa đựng vẻ đẹp hùng vĩ đầy lôi cuốn.
Hai biểu tượng chi phối toàn bộ tác phẩm là hình tượng của sông Đà và người lái đò, liên tục đối mặt với những thách thức khắc nghiệt của thiên nhiên. Với tài năng văn bút đặc sắc, Nguyễn Tuân đã tạo dựng hình ảnh Đà giang với hai diện mạo, hai cảm xúc đối lập: vừa hùng vĩ, hung bạo, vừa trữ tình, thơ mộng.
Nguyễn Tuân đưa người đọc theo những cảm xúc từ nỗi sợ hãi đến niềm đam mê và hứng thú. Bằng sức sáng tạo phong phú, lối viết nhạy bén độc đáo, sông Đà hiện lên trước đôi mắt độc giả với sự hấp dẫn của nỗi sợ hãi và niềm thích thú không ngừng. Phần hung bạo được khám phá qua hình ảnh ‘đá bờ sông dựng vách thành’, nguyên tác ẩn dụ những khối đá như những thành trì vững chãi, đầy nguy hiểm và bí ẩn, tạo ra sự đe dọa trực tiếp. Nhà văn mô tả bờ sông như có vách đá ‘chẹt lòng sông như một cái yết hầu’, và hai bên bờ như con hươu, con nai nhảy qua. Các hình ảnh này, mặc dù có vẻ ngẫu nhiên, nhưng chứa đựng sự tinh tế nghệ thuật của tác giả, tạo nên chiều cao và hẹp của vách đá, giữa lòng sông. Khi ngồi trong thuyền đi qua khúc sông, mặc dù là mùa hè nóng nhưng khung cảnh chật hẹp, kỳ diệu khiến người đọc cảm thấy sợ hãi và nhỏ bé giữa thiên nhiên.
Bức tranh hung bạo của sông Đà còn được thể hiện ở mặt ghềnh Hát Loóng. Các cây số ‘nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió’ tạo nên một loạt hình ảnh thanh sắc, tăng cường cảm giác sóng gió ngày càng mạnh mẽ và cao lên. Nghệ thuật diễn đạt thông qua việc lặp lại động từ mạnh ‘xô’ nhiều lần. Sức mạnh tự nhiên trở nên kinh hoàng, lạnh lùng, ‘gùn ghè’ như một con thú dữ, sẵn sàng thách thức con người.
Những cơn ‘hút nước’ khổng lồ trên sông Tà Mường Vát. Xoáy nước ‘như những cái giếng bê-tông’ được thả xuống như móng cầu, nước ‘thở và kêu như một cái cống bị sặc’. Nghệ thuật nhân hoá kết hợp so sánh của Nguyễn Tuân làm cho câu chuyện trở nên sống động, hấp dẫn hơn bao giờ hết. Khúc sông này nguy hiểm đến mức không ai dám đến gần, nếu không sẽ bị hút vào, bị chìm xuống đáy sông và biến mất một cách đáng sợ.
Hình ảnh của sông Đà hiện lên rõ nhất trong khúc thác, vô cùng hung dữ và mãnh liệt. Nguyễn Tuân sử dụng hình ảnh và âm thanh để tạo ra bức tranh sinh động: tiếng ‘réo gần mãi lên, réo to mãi lên’ từ thác xa, âm thanh ‘oán trách’, ‘van xin’, ‘khiêu khích’, giống như ‘một ngàn con trâu mộng’ gầm thét, tranh đấu giữa đám cháy rừng. Mọi thứ đều hỗn loạn và đẹp đẽ đến kinh ngạc.
Top những bài Phân tích Người lái đò sông Đà
Những tảng đá sông Đà tạo nên ‘chân trời đá’ rộng lớn, mỗi tảng đá mang nét độc đáo như con người với sự ‘ngỗ nghịch’, ‘nhăn nhúm’, ‘méo mó’. Sông Đà dường như đã giao phó nhiệm vụ cho từng tảng đá để thách thức con người. Tác giả miêu tả thậm chí mô phỏng cuộc chiến ‘thạch trận’ gay go, với các ‘cửa tử’ và ‘cửa sinh’ khôn lường, tạo ra một vẻ hung bạo và thách thức khó lường.
Tuy nhiên, sông Đà cũng có những khoảnh khắc dịu dàng, trữ tình và thơ mộng. Vẻ đẹp của Đà giang được mô tả qua nhiều góc nhìn, không gian và thời kỳ khác nhau. Từ trên cao, con sông uốn lượn như áng tóc của người con gái Tây Bắc kiều diễm, mềm mại. Màu nước sông biến đổi theo mùa, mỗi mùa mang một vẻ đẹp độc đáo: mùa xuân xanh ngọc bích, mùa thu lừ lừ chín đỏ. Sông Đà như một người phụ nữ xinh đẹp, thay đổi khó lường nhưng luôn toát lên vẻ kiêu hãnh và sự thay đổi đa dạng.
Sông Đà tỏ ra dịu dàng như một cố nhân, bờ sông tràn ngập vẻ êm đềm, tươi đẹp như màu nắng tháng ba Đường thi. Người cố nhân đó giờ đây trở nên yên bình, lặng lẽ như đang ngắm nhìn thời gian trôi qua, thưởng thức cảnh sắc bên bờ sông. Bờ sông Đà hoang sơ như cổ tích, trù phú nhờ phù sa bồi đắp. Nương ngô nhú lên mảnh lá non, cỏ đang ra những nõn búp, và xa xa là những con hươu nhai cỏ. Sông Đà trở thành bờ tiền sử, mang theo nỗi niềm cổ tích xa xưa.
Xem thêm : Cổng kết nối USB Type-C là gì?
Dòng sông Đà được mô tả rõ nét thông qua nhiều kỹ thuật nghệ thuật độc đáo như so sánh, ẩn dụ, nhân hoá, và động từ mạnh. Nguyễn Tuân tạo ra những câu văn sống động, đầy nhịp điệu, biến Đà giang từ một con sông vô tri thành một sinh thể có tâm hồn và suy nghĩ.
Trong tác phẩm, con người là điều không thể thiếu. Thiên nhiên càng lớn lao, hùng vĩ, thì vẻ đẹp và trí tuệ của con người lao động càng trở nên nổi bật. Người lái đò là biểu tượng cho người lao động chăm chỉ và can đảm, sẵn sàng đối mặt với thiên nhiên. Mặc dù sông Đà trở thành kẻ thù, người lái đò vẫn thể hiện sự nhỏ bé giữa bản năng hung tợn của thiên nhiên, nhưng đồng thời bộc lộ sự mưu trí và tài năng nghệ sĩ.
Tính anh dũng, tài hoa, và trí tuệ của người lái đò được thể hiện qua cảnh vượt thác sông Đà. Trong cuộc chiến đầy thách thức này, ông lái đò không chút sợ hãi, mà ngược lại, ông vượt qua từng cửa ải một. Nguyễn Tuân mô tả chiến trận ‘thạch trận’ sống động, với các ‘cửa tử’ và ‘cửa sinh’ khôn lường. Mặc dù ông đò bị thương, nhưng ông vẫn kiên trì giữ chặt buồng lái, thể hiện sự quyết tâm và sự tỉnh táo. Cuối cùng, chiến thắng thuộc về người lái đò, và họ vượt qua được thách thức khó khăn này.
Không ngừng hành động, không dừng chân, ngay lập tức phá vỡ vòng vây thứ hai. Lần này, chiến thuật mới xuất hiện. Người lái đò giữ chặt bí mật của ‘thần sông Đà’, tận dụng quy luật phục kích của đá tại ải nước hiểm trở này. Con sông Đà, gian trá và độc ác, nhiều cửa tử hơn, cửa sinh lệch về phía hữu ngạn. So sánh như ‘cưỡi hổ’, người lái đò không do dự, lái thẳng vào cửa sinh, vượt qua những cửa tử và những hòn đá ‘không ngừng khiêu khích’.
Chiến trận cuối cùng, ít cửa ải hơn, cả bên phải và trái đều là luồng chết. Con sông Đà, vẫn khát vọng hiếu thắng, muốn nuốt trọn con thuyền trong lần giao chiến quyết định này. Nhưng người lái đò, trải qua nhiều trận đánh, tích lũy nhiều kinh nghiệm, giữ chặt bí mật, đưa thuyền thẳng vào ‘chọc thủng cửa giữa’, vượt qua luồng sinh, chiến thắng kẻ thù hung bạo.
Nguyễn Tuân vẽ nên hình tượng người lái đò Sông Đà bằng nhiều nghệ thuật đặc sắc. Tác giả sử dụng từ ngữ đa dạng: Binh pháp, võ thuật, thể thao, âm nhạc… và các biện pháp tu từ như so sánh, nhân hoá, với nhịp điệu câu văn hài hoà sinh động. Hình ảnh người lái đò trở nên trí tuệ, tài năng và dũng cảm, là biểu tượng cho con người lao động Tây Bắc mang những phẩm chất cao quý.
Đoạn trích về người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân là một tác phẩm vô cùng quý giá, thành công trong việc xây dựng hình tượng và tôn vinh vẻ đẹp của thiên nhiên và con người miền Tây Bắc. Tác giả thể hiện tình cảm sâu sắc, tận tâm, và mối liên kết mạnh mẽ của mình với quê hương, đất nước, và con người Việt Nam.
3. Phân tích Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân với mẫu số 3: (Chuẩn)
Nguyễn Tuân, sinh năm 1910 và qua đời năm 1987, là một danh họa văn chương Việt Nam. Nhà văn này, tri thức và yêu nước, với tư duy sâu rộng về văn hoá dân tộc, đã sáng tác những tác phẩm uyên bác, mang đầy giá trị. Trước cách mạng, tác phẩm của ông thường chú trọng đến vẻ đẹp tài hoa của những con người ‘một thời vang bóng’ như Huấn Cao. Sau cách mạng, Nguyễn Tuân thu hút độc giả bằng sự tinh tế và tài năng trong việc vẽ nên những nét đẹp gần gũi, bình dị trong thiên nhiên và đời sống con người. Tuỳ bút ‘Người lái đò sông Đà’ thể hiện rõ phong cách văn học ấy.
Trong tuyển tập, Sông Đà được mô tả vừa hùng vĩ, kiêu sa, dữ dội và vừa xinh đẹp, dịu dàng, thơ mộng. Nguyễn Tuân mô tả sông từ nhiều góc độ, mỗi góc độ đều làm ta cảm nhận được vẻ đẹp và tình yêu thương. Không chỉ đẹp trong bức tranh bình lặng của hàng tre mỗi trưa hè, sông Đà còn hiện lên sống động, mãnh liệt khi màn đêm buông xuống. Con sông trở thành ‘kẻ thù số một của con người’. Những con thác, những gạn nước từ Vạn Yên về xuôi tạo nên một bức tranh mênh mang. Hai bờ sông như những vách đá hiểm trở khôn cùng. Nước và sóng xô chồng lên nhau như đang thi nhau phô bày vẻ dữ tợn, oai hùng của mình. Tất cả là những thách thức, nguy hiểm mà ai đi qua sông Đà cũng phải đối mặt. Sông hùng dũng, bạo ngược, sẵn sàng nhấn chìm bất kỳ thuyền nào không làm chủ tốt lái.
Nguyễn Tuân, nhờ am hiểu và trải nghiệm sâu sắc, đã sử dụng ngôn từ mới lạ, linh hoạt, độc đáo để mô tả Sông Đà. Sông Đà hiện lên đẹp đẽ, dịu dàng và thơ mộng, giống như vẻ đẹp của người thiếu nữ Tây Bắc. Sông Đà trở nên trữ tình, khơi dậy sự yêu thương và tạo nên một sức hấp dẫn kỳ diệu. Đôi khi, sông Đà có những cảm xúc, cảm giác như người, nhớ nhung và thương yêu. Vẻ đẹp của sông được thể hiện qua thiên nhiên, mây trời, tạo nên nét đặc sắc riêng biệt. Mỗi lúc, sông Đà khiến người ta thích thú với sắc nước thay đổi theo mùa: ‘Mùa xuân, sông xanh ngọc bích, nước không xanh như Sông Gâm, Sông Lô. Mùa thu, nước Sông Đà chín đỏ như da mặt người say rượu, như màu đỏ giận dữ của người bất mãn mỗi khi thu về’.
Bài phân tích văn mẫu về tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Bờ sông Đà hiện lên tuyệt vời, dịu dàng bởi hương hoa, bướm, chuồn chuồn, và những cảnh ngô non, cỏ non tơ mềm mại. Hình ảnh đàn hươu tự do gặm cỏ non sương đêm, cùng với mọi sinh linh hòa mình vào vẻ đẹp tuyệt vời của sông, tạo nên bức tranh hấp dẫn. Nguyễn Tuân với cảm xúc chân thành và sự trân trọng, biểu hiện sự quý giá của những điều nhỏ bé, bình dị. Ông khắc họa một bức tranh tuyệt vời của sông Đà, đậm chất trữ tình.
Ngoài hình ảnh hùng vĩ của sông Đà, tác phẩm còn mô tả hình ảnh người lái đò tài năng, nghệ sĩ, duyên dáng trên dòng sông. Không phải là một thanh niên trai tráng, người lái đò là một ông già gần bảy mươi, đã trải qua hàng trăm hành trình. Những kinh nghiệm đó giúp ông trở nên thuần thục và kiên trường. Người lái đò như ‘vàng mười’ đã vượt qua thách thức của sóng kinh hoàng và thạch trận nguy hiểm. Đối mặt với những cảnh sóng dữ, ông không sợ hãi mà ngược lại, hứng khởi. Ông chiến thắng ba thạch trận và quay trở về cuộc sống bình yên. Đây là hình ảnh của một người lao động kiên trường, đối mặt với những khó khăn để có được niềm vui trong cuộc sống.
Nguyễn Tuân đã tạo nên một kiệt tác độc đáo, một phong cách nghệ thuật uyên bác và tài hoa. Khi đọc tuy bút ‘Người lái đò sông Đà’, tôi không ngừng trải qua những cảm xúc sâu sắc. Đó chính là vẻ đẹp tuyệt vời mà văn học mang lại, kích thích những cảm xúc thẩm mỹ to lớn. Tôi biết ơn Nguyễn Tuân, một nghệ sĩ trải qua cuộc đời tìm kiếm cái đẹp, để nâng niu những giá trị vững bền của cuộc sống và dân tộc.
4. Mẫu văn Phân tích Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân đạt điểm xuất sắc, mẫu số 4
4.1. Bài văn: – Giới thiệu tác giả, tác phẩm.- Tổng quan nội dung tác phẩm. 4.1.2. Phần chính: 4.1.2.1. Tổng quan: – Tên và lời đề: đề cập đến thiên nhiên và con người. – Vẻ đẹp đối lập của sông Đà và hình ảnh lao động Tây Bắc. 4.1.2.2. Phân tích:4.1.2.2.1. Dòng sông Đà: a, Vẻ đẹp hung bạo: * Cảnh sông Đà: vách đá, ghềnh Hát Loóng, Tà Mường Vát. * Trận địa thác đá: tiếng thác nước, biến chuyển linh hoạt, đối đầu với con người. => Sông Đà là kẻ thù của con người. b, Vẻ đẹp trữ tình: – Góc nhìn từ trên cao: ‘dây thường ngoằn ngoèo’, ‘áng tóc trữ tình’. – Màu nước sông thay đổi theo mùa. – Sông Đà như một cố nhân, bờ sông hoang dại. 4.1.2.2.2. Người lái đò: a, Lai lịch và công việc: – Tên gọi đơn giản: ‘ông đò’. – Công việc: lái đò chở khách. b, Phẩm chất: – ‘Chiến sĩ’ gan trường trên ‘mặt trận’ sông Đà. – Người nghệ sĩ vượt thác tài hoa. – Lao động bình dị, âm thầm cống hiến. 4.1.3. Đánh giá: – Đổi mới trong ngòi bút Nguyễn Tuân: từ vẻ đẹp ‘vang bóng’ sang vẻ đẹp của thiên nhiên và con người lao động. – Khen ngợi vẻ đẹp sông Đà và hình tượng con người lao động. – Ngôn ngữ điêu luyện, liên tưởng độc đáo, áp dụng kiến thức đa ngành.4.1.4. Kết luận: – Xác nhận giá trị tác phẩm. – Liên kết mở rộng.
4.2. Bài văn mẫu Phân tích Người lái đò sông Đà chọn lọc nhất:
‘Người lái đò Sông Đà’ đứng đầu những tác phẩm xuất sắc của văn học Việt Nam sau Cách mạng. Tác phẩm chân thực tái hiện vẻ đẹp dữ dội, nên thơ của dòng sông Đà. Đồng thời, tôn vinh con người lao động qua hình tượng người lái đò tài năng.
Trong dòng chảy văn học Việt Nam, nhiều tác phẩm đã thành công khắc họa vẻ đẹp hoang sơ, trữ tình của thiên nhiên Tây Bắc. Nguyễn Tuân, với chủ nghĩa ‘xê dịch’ và ham muốn khám phá, đã sáng tác tùy bút ‘Người lái đò Sông Đà’. Bức tranh của ông không chỉ thể hiện hai mặt đối lập của sông Đà mà còn vẽ lên hình ảnh con người lao động lớn lao, cao cả và đồng thời dân dã, bình dị.
Dòng sông Đà xuất hiện với vẻ đẹp hùng vĩ, có phần dữ dội. Chi tiết đá bờ sông ‘đứng vách thành’, ‘chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu’ tạo nên một không gian khá ngột ngạt và lạnh lẽo. Nguyễn Tuân mô tả cực kỳ chi tiết những nét dữ dằn của Đà giang, từ mặt ghềnh Hát Loóng hỗn loạn đến Tà Mường Vát với những cái hút nước đặc biệt. Ông tận dụng hình ảnh ‘ô tô sang số ấn ga’ để tạo ra một thước phim kịch tính. Phía thác nước trở thành ‘quãng thủy chiến’ in dấu những cuộc chiến đấu gian lao với người lái đò. Tiếng thác từ xa ‘réo to mãi lên’, như tiếng một ngàn con trâu mộng, tạo nên một khung cảnh hùng tráng.
Ngoài vẻ dữ dằn, sông Đà còn mang vẻ đẹp dịu dàng, nên thơ và trữ tình. Góc nhìn từ trên cao, Nguyễn Tuân ví sông như ‘một áng tóc trữ tình, đầu tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo’. Mặt nước êm ả hơn, màu nước thay đổi theo mùa, tạo nên cảm giác hùng vĩ và trữ tình. Bờ sông xuất hiện như một bức tranh hoang dại, hồn nhiên như một câu chuyện cổ tích tuổi xưa.
Hình tượng người lái đò được tác giả mô tả rõ nét. Họ là những người vô danh nhưng mang tầm vóc không kém thiên nhiên hùng vĩ. Trước sức tấn công dữ dội của sóng nước, người lái đò vẫn dũng cảm vượt qua. Họ nắm chắc tay chèo, uyển chuyển chinh phục từng cửa ải khó nhằn. Trước những trận chiến cam go, họ hiện ngang như nghệ nhân trong nghệ thuật vượt thác. Sau những phút giây gian truân, những người lái đò trở về với cuộc sống yên bình, đốt lửa, nướng ống cơm lam và tận hưởng vẻ đẹp của con người lao động.
Nguồn: https://truonggiaothongvantai.edu.vn
Danh mục: Blog
Ý kiến bạn đọc (0)